Công ty TNHH Kẻ Gỗ, chuyên xuất khẩu các sản phẩm gỗ Việt Nam tới 47 quốc gia trên thế giới và đang tiếp tục trên con đường tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu. Chúng tôi cần tuyển thêm 05 đồng đội với các vị trí sau:
Công ty TNHH Kẻ Gỗ, chuyên xuất khẩu các sản phẩm gỗ Việt Nam tới 47 quốc gia trên thế giới và đang tiếp tục trên con đường tiếp tục mở rộng thị trường xuất khẩu. Chúng tôi cần tuyển thêm 05 đồng đội với các vị trí sau:
Bảng 1. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản Việt Nam 9 tháng năm 2023
Tăng, giảm so với cùng kỳ (+,-%)
Trong các thị trường xuất khẩu thủy sản lớn của Việt Nam trong 9 tháng năm 2023, Mỹ chiếm vị trí số 1 với tổng kim ngạch xuất khẩu thủy sản đạt 1,2 tỷ USD; tiếp theo là Trung Quốc và Hồng Kông 1,1 tỷ USD; Nhật Bản 1,1 tỷ USD; EU đạt 715 triệu USD và Hàn Quốc đạt 568 triệu USD.
Bảng 2. Top 5 thị trường xuất khẩu thủy sản của Việt Nam 9 tháng năm 2023
Về kim ngạch và thị trường xuất khẩu của các mặt hàng tôm, cá tra, cá ngừ của Việt Nam trong 9 tháng năm 2023 cụ thể như sau:
Tôm: Tính tới hết tháng 9/2023, xuất khẩu tôm đạt gần 2,6 tỷ USD. Trong đó, xuất khẩu sang Mỹ và Trung Quốc ghi nhận tăng trưởng dương trong 2 tháng trở lại đây. Bên cạnh đó, một số thị trường chính trong khối CPTPP như Nhật Bản, Australia, Canada đang tăng nhập khẩu tôm từ Việt Nam.
Theo Hiệp hội Chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam (Vasep), XK tôm Việt Nam trong tháng 9 năm nay nhìn thấy tín hiệu tích cực từ các thị trường như Mỹ, Australia, Canada, Bỉ, Đài Loan với mức tăng trưởng dương từ 1%-54%. Các thị trường lớn còn lại như EU, Nhật Bản, Hàn Quốc vẫn ghi nhận tăng trưởng âm từ 10%-26% tuy nhiên mức giảm đã thấp hơn so với những tháng trước đó. Riêng thị trường Trung Quốc và HK, sau khi tăng trưởng dương trong 3 tháng 6,7 và 8, XK tôm sang thị trường này lại tiếp tục xu hướng giảm.
Về sản phẩm XK, tính tới tháng 9 năm nay, giá trị XK tôm chân trắng (chiếm tỷ trọng 74%) đạt 1,9 tỷ USD, giảm 26%, XK tôm sú đạt 356 triệu USD (chiếm tỷ trọng 14%), giảm 23%. Còn lại là giá trị XK tôm loại khác với 298 triệu USD, giảm 28% trong đó XK tôm khác đóng hộp và tôm khác khô tăng trưởng dương lần lượt 20% và 57%.
Tháng 9/2023, XK tôm Việt Nam sang Trung Quốc&HK giảm 13% đạt 61 triệu USD. XK tôm sang thị trường này giảm trong tháng 9 sau khi tăng trưởng dương liên tiếp trong 3 tháng 6,7 và 8. Lũy kế 9 tháng, XK tôm sang thị trường này đạt 454 triệu USD, giảm 6%.
Cá tra: tháng 9/2023, XK cá tra Việt Nam ghi nhận tăng trưởng dương lần đầu kể từ đầu năm nay, với giá trị gần 167 triệu USD, tăng 1% so với cùng kỳ năm ngoái. Lũy kế XK cá tra Việt Nam 9 tháng đầu năm nay đạt gần 1,4 tỷ USD, giảm 31% so với cùng kỳ năm ngoái.
Bảng 3. Xuất khẩu cá tra của Việt Nam T1-T9/2023
Về cơ cấu sản phẩm cá tra xuất khẩu từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2023 như sau:
Bảng 4. Cơ cấu sản phẩm cá tra xuất khẩu T1-T9/2023
Xuất khẩu cá tra 9 tháng năm 2023 sang hầu hết các thị trường và khối thị trường chính đều giảm so với cùng kỳ năm 2022. XK sang thị trường Trung Quốc và Hồng Kông giảm 26%; Mỹ giảm 54%; Braxin giảm 0,4%; CPTPP giảm 31%, Anh giảm 1% và Mexico giảm 41%.
Bảng 5. Các thị trường xuất khẩu cá tra của Việt Nam
Tăng, giảm so với cùng kỳ (+,-%)
Cá ngừ: Tháng 9/2023, xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam đạt 72 triệu USD, giảm 8% so với cùng kỳ năm 2022 và giảm 18% so với tháng trước đó.
Bảng 6. Xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam T1-T9/2023
Về sản phẩm, XK thịt/loin cá ngừ đông lạnh mã HS0304 của Việt Nam tiếp tục sụt giảm trong tháng 9. Do đó, tính lũy kế 9 tháng đầu năm 2023, XK nhóm sản phẩm này giảm 41%, đạt 315 triệu USD. XK cá ngừ đóng hộp của Việt Nam cũng có xu hướng giảm sâu hơn trong tháng này, giảm 15% so với cùng kỳ. Điều này đã khiến tổng giá trị XK nhóm sản phẩm này của Việt Nam trong 9 tháng đầu năm giảm nhẹ 0,2% so với cùng kỳ.
Trong khi đó, XK các sản phẩm cá ngừ chế biến khác, trong đó chủ yếu là thịt/loin cá ngừ hấp đông lạnh, có xu hướng tăng nhanh hơn trong tháng 9, với mức tăng 97%. Mức tăng này đã nâng tổng giá trị XK mặt hàng này trong 9 tháng đầu năm 2023 lên hơn 107 triệu USD, tăng 29% so với cùng kỳ.
Về thị trường, XK cá ngừ sang một số thị trường chính đang có dấu hiệu hồi phục trong tháng 9 sau một thời gian sụt giảm như Canada và Nga, với mức tăng lần lượt là 44% và 124%. Trong khi đó, XK sang một số thị trường truyền thống lại đảo chiều giảm như EU và Israel.
Tại thị trường Mỹ, XK cá ngừ đã không giữ được đà tăng trưởng trong tháng 8. Giá trị XK cá ngừ sang thị trường này đã giảm nhẹ 1% trong tháng 9. Tính lũy kế 9 tháng đầu năm 2023, kim ngạch XK cá ngừ sang thị trường này vẫn giảm hơn 41% so với cùng kỳ.
Bảng 7. Top 6 thị trường xuất khẩu cá ngừ của Việt Nam từ tháng 1 đến tháng 9 năm 2023
Phòng Thông tin và xúc tiến thương mại - VIOIT
EU là thị trường nhập khẩu thủy sản (NKTS) lớn nhất của Việt Nam. Nhưng từ năm 2019, vị trí này đã hạ xuống thứ 4 (sau Mỹ, Nhật Bản và Trung Quốc). Về phía EU, Việt Nam là thị trường cung cấp thủy sản đứng thứ hai trong khu vực châu Á, chỉ xếp sau Trung Quốc. Nhu cầu NKTS của EU là rất lớn, trên 50 tỷ USD/năm. Vì vậy, EU vẫn là một trong những thị trường lớn, quan trọng đối với xuất khẩu thủy sản (XKTS) Việt Nam trong những năm gần đây và sẽ tiếp tục là thị trường tiềm năng trong những năm tới.
Tình hình thương mại thủy sản Việt Nam – EU
Trong bốn năm từ 2015 – 2018, EU luôn là thị trường top đầu, cho đến năm 2019, vị trí này đã hạ xuống thứ tư với mức giảm 11,9% so với năm 2018.Anh, Hà Lan, Đức, Italy và Bỉ là năm thị trường tiềm năng nhất trong khối này.Cuối tháng 1 năm 2020, Anh chính thức rời khỏi Liên minh châu Âu khiến cho giá trị nhập khẩu thủy sản chung của cả khối sụt giảm đáng kể, tuy nhiên EU vẫn giữ vị trí trong top 5 các thị trường nhập khẩu thủy sản của Việt Nam. Theo số liệu của Hiệp hội chế biến và xuất khẩu thủy sản Việt Nam, kim ngạch xuất khẩu hải sản sang EU giảm tới 24% trong giai đoạn từ 2017 đến 2020. Hiện mỗi năm giá trị xuất khẩu hải sản Việt Nam vào EU không quá 400 triệu USD.
Bảng 1. Xuất khẩu thủy sản Việt Nam sang EU từ 2015 – 2019 theo từng mặt hàng (Đơn vị: Tỷ USD)
Nguồn: Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP)
Nhìn số liệu thống kê trên, ta thấy mặt hàng chủ lực xuất khẩu vào EU là Tôm EU là thị trường nhập khẩu tôm lớn của Việt Nam. Năm 2015, EU xếp thứ 3 về nhập khẩu tôm của Việt Nam, sau Mỹ và Nhật Bản. Năm 2016, EU vươn lên vị trí thứ 2 sau Mỹ và trở thành thị trường nhập khẩu tôm lớn nhất của Việt Nam năm 2017. Năm 2019, EU đứng đầu về nhập khẩu tôm của Việt Nam, chiếm 21 %5 tổng giá trị xuất khẩu tôm của Việt Nam đi các thị trường. Như vậy, EU duy trì vị trí số 1 về nhập khẩu tôm của Việt Nam từ năm 2017 đến năm 2019.
Hình 2. Nhập khẩu tôm của EU giai đoạn 2015 – 2019
Nguồn: Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP)
Trung bình mỗi năm, xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU đạt khoảng trên 0,7 tỷ USD. Trong 5 năm (2015-2019), xuất khẩu sang EU tăng từ 0,55 tỷ USD năm 2015 lên 0,69 tỷ USD năm 2019. Xuất khẩu tôm sang EU giai đoạn 5 năm này đạt đỉnh vào năm 2017 với 0,86 tỷ USD. Xuất khẩu tôm Việt Nam sang EU hai năm gần đây (2018- 2019) có xu hướng giảm.
Trong thời gian 2015 – 2019, thị trường EU luôn đứng trong top 3 thị trường xuất khẩu cá tra lớn nhất của Việt Nam. Trong đó, ba thị trường nhập khẩu cá tra lớn nhất từ Việt Nam của khu vực EU là Hà Lan, Anh và Đức. Trong đó Hà Lan là thị trường dẫn đầu trong 5 năm qua. Kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan năm 2016 đạt 204,1 triệu USD, tăng 22% so với năm 2015 và lần lượt đạt 307,4 triệu USD vào năm 2017, 296 triệu USD năm 2018, 215 triệu USD năm 2019. Trong đó, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan giảm liên tiếp trong 2 năm 2018 và 2019 là do chịu ảnh hưởng bởi “thẻ vàng” khiến cho xuất khẩu thủy sản khai thác tới EU giảm mạnh.
Sau khi EVFTA có hiệu lực khi xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới thị trường Hà Lan trong năm 2020, kim ngạch xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan tăng nhẹ so với năm 2019 cho dù dịch Covid-19 tác động xấu tới nhu cầu nhập khẩu thủy sản của Hà Lan. Nguyên nhân chính là do xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan giai đoạn cuối năm 2020 đã bứt phá khi EVFTA có hiệu lực từ ngày 1/8/2020. 6 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam tới Hà Lan tăng 7,4% về lượng và tăng 4,8% về trị giá so với cùng kỳ năm 2020, đạt 19,9 nghìn tấn với trị giá 99,2 triệu USD, chiếm 19,09% về lượng và chiếm 20,45% về trị giá xuất khẩu thủy sản tới EU, là thị trường có tiêu thụ thủy sản lớn nhất của Việt Nam tại EU.
Tại thị trường Đức, tôm các loại chiếm 50,3% về lượng và chiếm 72,9% về trị giá; cá ngừ các loại chiếm 25,2% về lượng và chiếm 14% về trị giá; cá tra, basa chiếm 15,8% về lượng và chiếm 7,1% về trị giá trong tổng xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Đức trong 6 tháng đầu năm 2021. Riêng trong 6 tháng đầu năm 2021, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang thị trường Đức đạt 14,6 nghìn tấn, trị giá 91,9 triệu USD, tăng 15,7% về lượng và tăng 18,9% về trị giá so với 6 tháng đầu năm 2020.
Trước đó, xuất khẩu thủy sản của Việt Nam sang Đức tăng trong năm 2017 và 2018, nhưng giảm trong 2 năm tiếp theo 2019 và 2020 do nhóm hàng thủy sản khai thác của Việt Nam xuất khẩu tới EU chịu ảnh hưởng bởi “thẻ vàng” IUU.
Đến nay, nhờ EVFTA, nhiều mặt hàng thế mạnh của Việt Nam đã tận dụng cơ hội để xuất khẩu sang Đức như Tôm đông lạnh thuộc giống “Penaeus”, hun khói, còn nguyên vỏ hay không, bao gồm cả tôm còn vỏ, nấu chín bằng cách hấp hoặc đun sôi trong nước… đều có kim ngạch xuất khẩu sang thị trường này tăng.
Tiêu thụ thuỷ sản bình quân đầu người của Đức trong năm 2020 khoảng gần 14kg/người/năm, mặc dù mức tiêu thụ thuỷ sản này không cao so với bình quân tiêu thụ thuỷ sản thế giới, nhưng ngày càng nhiều người dân Đức nhận thấy việc tiêu thụ thuỷ sản rất có lợi cho sức khoẻ và lựa chọn tiêu dùng thuỷ sản cũng tiện dụng như các sản phẩm thịt khác. Đức với dân số 83,8 triệu người và là quốc gia phát triển nhất trong Liên minh châu Âu, nên nhu cầu nhập khẩu thủy sản của Đức sẽ tăng trong thời gian tới, do nhu cầu tiêu dùng và nhập khẩu của Đức tăng. Do đó, các doanh nghiệp thủy sản của Việt Nam sẽ có cơ hội tăng giá trị xuất khẩu sang Đức và sẽ tận dụng tốt Hiệp định EVFTA với những sản phẩm xuất khẩu thủy sản chủ lực mà Việt Nam có lợi thế như tôm, cá ngừ...
Bảng 3. Xuất khẩu cá tra sang EU, 2015-2019 (Đơn vị: Tỷ USD)
Nguồn: Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP)
Trong 5 năm (2015 - 2019), giá trị xuất khẩu cá tra của Việt Nam sang EU giảm 17,4% từ 0,29 tỷ USD (2015) xuống còn 0,24 tỷ USD (2019).
Mặc dù, EU là thị trường nhập khẩu lớn và truyền thống của cá tra Việt Nam, nhưng giá xuất khẩu cá tra trung bình sang thị trường này không ổn định và đã giảm dần từ 2015 - 2019. Hai nhóm sản phẩm xuất khẩu cá tra lớn nhất sang nước này là: cá tra fillet đông lạnh và cá tra fillet cắt tẩm gia vị đông như: cá tra fillet cắt miếng tẩm bột, cá tra cuộn cà chua đông lạnh, cá tra cắt strip tẩm tempura, cá tra fillet tẩm xốt (tẩm Miso) đông lạnh,..
Những thuận lợi và khó khăn đối với hoạt động XKTS vào thị trường EU
Với tổng dân số 447 triệu dân và thu nhập bình quân đầu người 34,843 USD/năm (tính đến năm 2019), Liên minh châu Âu (EU) là một thị trường tiêu dùng thật sự hấp dẫn. Riêng đối với mặt hàng thủy sản, thị trường này càng có sức hút, khi EU là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất thế giới trong nhiều năm qua, với kim ngạch nhập khẩu thủy sản năm 2019 từ các nước bên ngoài khối đạt 30,86 tỷ USD.
Việt Nam có nguồn nguyên liệu lớn và tương đối ổn định, đăc biệt có tiềm năng tiếp tục phát triển diện tích nuôi biển, nuôi sinh thái các giống loài thuỷ hải sản tạo nguồn cung lớn; Sản phẩm thuỷ sản của Việt Nam đa dạng và có ưu thế về sản lượng (đặc biệt là tôm sú và cá tra); đồng thời vẫn còn tiềm năng đa dạng hoá các sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu, nâng cao giá trị gia tăng; Lực lượng lao động ngành thuỷ sản của Việt Nam lớn, tương đối lành nghề và có kinh nghiệm sản xuất; Công nghệ chế biến thuỷ sản đạt trình độ tiên tiến, đáp ứng yêu cầu khắt khe của khách hàng; nhiều cơ sở đã kiểm soát được hệ thống chuỗi sản xuất, bảo đảm vệ sinh an toàn thực phẩm theo các tiêu chuẩn quốc tế; Các doanh nghiệp thuỷ sản Việt Nam có nhiều kinh nghiệm trong đáp ứng các yêu cầu, thủ tục của thị trường xuất khẩu cũng như tiếp cận hệ thống phân phối ở các thị trường (kể cả các thị trường khó tính nhất)
Tuy nhiên, Chuỗi cung ứng thủy sản ở Việt Nam còn nhiều hạn chế, đặc biệt là trong khâu đầu vào. Mối liên hệ giữa các doanh nghiệp chế biến thủy sản xuất khẩu và giữa cơ sở sản xuất ban đầu (các hộ khai thác, nuôi trồng) chưa hiệu quả, còn qua nhiều khâu trung gian; nguồn nguyên liệu không ổn định, phân tán và sản lượng quy mô nhỏ; số lượng doanh nghiệp tạo vùng nguyên liệu với chuỗi cung ứng kép kín từ khâu sản xuất con giống, nuôi trồng đến sản xuất thành phẩm có tăng trưởng nhưng chưa nhiều. Vì nguồn cung trong nước không đủ để đáp ứng các đơn hàng xuất khẩu, nên trong thời gian qua có tình trạng một số doanh nghiệp thủy sản của Việt Nam phải nhập khẩu nguyên liệu thủy sản từ các nước, đặc biệt là từ Ấn Độ, để tái xuất sang các thị trường khác, trong đó có EU. Năm 2019, Việt Nam xuất khẩu thủy sản 8,58 tỷ USD nhưng ngược lại, Việt Nam cũng đã nhập khẩu thủy sản đến 1,78 tỷ USD, trong đó, nhập khẩu từ Ấn Độ chiếm 11.3%, và từ ASEAN chiếm 8%. Nếu tình trạng trên không được khắc phục, sẽ dễ dẫn đến nhiều hệ lụy cho ngành xuất khẩu thủy sản của Việt Nam. Ủy ban Châu Âu (EC) áp thẻ vàng cảnh cáo bởi các hành vi khai thác đánh bắt bất hợp pháp IUU Ngày 23/10/2017, ngành Thủy sản Việt Nam bị EC áp thẻ vàng cảnh cáo bởi các hành vi khai thác đánh bắt bất hợp pháp IUU.
Kể từ khi Việt Nam bị áp dụng "thẻ vàng" đến nay, phía EC đã 2 lần sang kiểm tra, đánh giá tình hình thực hiện các khuyến nghị vào năm 2018 và 2019. Tuy nhiên, vẫn chưa thể nói trước điều gì về triển vọng được EU gỡ thẻ vàng. Tình huống xấu nhất là EU sẽ áp dụng thẻ đỏ, đồng nghĩa với việc toàn bộ thủy sản Việt Nam sẽ bị cấm xuất khẩu vào EU.
Dịch covid-19 tác động đến tình hình xuất khẩu thủy sản sang các thị trường khác, trong đó có EU. Dịch Covid-19 bùng phát mạnh và diễn biến phức tạp trên toàn cầu đã khiến cho tiêu thụ thủy sản giảm, xu hướng tiêu dùng thay đổi, đơn đặt hàng giảm từ 35% đến 50%. Cùng với đó, giãn cách xã hội khiến sản xuất trong nước và thương mại quốc tế đình trệ, doanh nghiệp bị thiếu nguyên liệu chế biến, vận tải và thanh toán khó khăn dẫn đến thiếu vốn để duy trì và phục hồi hoạt động.
Giải pháp đẩy mạnh XKTS vào thị trường EU
Từ những phân tích trên, để đẩy mạnh hoạt động XKTS vào thị trường EU, doanh nghiệp cần chú ý nâng cao chất lượng sản phẩm thủy sản xuất khẩu, đáp ứng yêu cầu về vệ sinh an toàn thực phẩm. Thị trường EU vẫn là một thị trường khó tính với những đòi hỏi khắt khe về chất lượng sản phẩm nên doanh nghiệp cần bám sát các kết quả nghiên cứu thị trường về thị hiếu người tiêu dùng, các yếu tố liên quan đến sức khỏe con người, từ đó chào bán sản phẩm an toàn cho người sử dụng với mẫu mã, chất lượng cải tiến, đa tiện ích, giá cạnh tranh. Nắm vững và hiểu rõ quy tắc xuất xứ của sản phẩm. Mặt hàng thủy sản Việt Nam được coi là có xuất xứ thuần túy nếu như các sản phẩm thủy sản được sinh ra và nuôi lớn tại các trang trại thủy sản trong nước hoặc thu được qua quá trình đánh bắt trong lãnh hải mà Việt Nam có quyền khai thác độc quyền. Doanh nghiệp cần phối hợp tốt với những nhà nuôi trồng, đánh bắt thủy hải sản trong việc tuân thủ quy tắc xuất xứ hàng hóa. Doanh nghiệp cần chú ý thu mua nguyên liệu hải sản được khai thác hợp pháp, có nguồn gốc, xuất xứ rõ ràng, không thu mua hải sản của các ngư dân vi phạm, từ những hoạt động khai thác không có giấy phép, không có nhật ký và không báo cáo theo quy định hoặc khai thác bằng ngư cụ bị cấm. Nỗ lực tận dụng EVFTA, sẽ giảm thiểu các hàng rào thương mại bất hợp lý, tăng tính công khai, minh bạch, có thể dự báo khi triển khai các biện pháp phòng vệ thương mại, kiểm dịch động thực vật, cũng như rào kỹ thuật. Vì vậy, các doanh nghiệp có thể tận dụng những cam kết này để tránh hoặc giảm thiểu nguy cơ đối mặt với các rào cản thương mại phi thuế mà EU đang và sẽ áp dụng với thủy sản nhập khẩu nói chung và thủy sản từ Việt Nam nói riêng.
Thông tin và dữ liệu tổng hợp, cập nhật về sản xuất và thương mại thủy sản Việt Nam và thế giới
Báo cáo phát hành tháng 02/2023
* Tình hình sản xuất thủy sản nuôi trồng, khai thác chi tiết theo ngành hàng chính: tôm, cá tra, cá ngừ… trong quý IV và cả năm 2022 (sản lượng, diện tích nuôi, giá nguyên liệu…)
* Diễn biến XK thuỷ sản theo sản phẩm chủ lực (tôm, cá tra, cá ngừ, mực, bạch tuộc, nhuyễn thể hai mảnh vỏ, cua, ghẹ, chả cá surimi…) và theo thị trường hàng tháng trong Quý IV và cả năm 2022.
* Diễn biến giá trung bình XK tôm sú, tôm chân trắng, cá tra, cá ngừ, mực, bạch tuộc, cua, ghẹ, ngao đi các thị trường.
* Top 100 Doanh nghiệp XK thủy sản năm 2022.
* Top 10 Doanh nghiệp XK tôm, cá tra, cá ngừ, mực bạch tuộc, ngao, cua, ghẹ đi các thị trường năm 2022
* So sánh vị thế của Việt Nam với các nước XK khác đối với từng ngành hàng.
* NK thuỷ sản theo sản phẩm chủ lực và nguồn cung cấp năm 2022, theo tháng và theo quý.
* Dự báo về tình hình sản xuất và XK trong quý I và cả năm 2023 chi tiết theo sản phẩm và thị trường.
MỤC LỤC VÀ DANH SÁCH BIỂU ĐỒ, BẢNG BIỂU
Kế hoạch dự kiến phát hành Báo cáo trong năm 2023:
Báo cáo Xuất khẩu Thủy sản Việt Nam 2023
Quý Doanh nghiệp và Bạn đọc quan tâm đến Báo cáo xin vui lòng liên hệ:
Ms Nguyễn Thu Trang - Mobile: 0906 151 556 -0868 093 697 - Email: [email protected]
Công ty Cổ Phần Xuất Nhập Khẩu Thủy Sản Nam Việt đã xây dựng hệ thống vận hành chế biến và kinh doanh các sản phẩm thủy sản chất lượng cao. Sản phẩm của chúng tôi được thị trường trong và ngoài nước tin dùng. Nhờ nhà xưởng rộng rãi, sạch sẽ, trang thiết bị hiện đại, đội ngũ nhân viên, công nhân lành nghề, chuyên nghiệp, nhà máy chúng tôi mang đến những sản phẩm tốt nhất cho khách hàng.
(ĐCSVN) - Mục tiêu xuất khẩu thủy sản của Việt Nam năm 2010 là đạt 4,5 tỉ USD và đến năm 2020 là phát triển ngành thủy sản thành một ngành sản xuất hàng hóa lớn, có năng suất, chất lượng và khả năng cạnh tranh cao, có cơ cấu sản phẩm đa dạng, đáp ứng nhu cầu tiêu dùng ngày càng tăng trong nước, đồng thời đẩy mạnh xuất khẩu.
EU là thị trường nhập khẩu thủy sản lớn nhất Việt Nam. Năm 2010, mặc dù thương mại EU đã có những dấu hiệu khởi sắc trở lại nhưng sự phục hồi vẫn còn mong manh. Cuộc khủng hoảng nợ công của Hy Lạp đang có xu hướng ngày càng lan rộng sang các nền kinh tế EU. Đồng EUR giảm giá khiến cho giá nhập khẩu thủy sản vào thị trường EU bị hạ bình quân 5%. Trước bối cảnh kinh tế trì trệ và nhiều bất ổn của thị trường EU, để đáp ứng mục tiêu và định hướng đề ra, Việt Nam phải chủ động điều chỉnh chiến lược và thực hiện đồng bộ những giải pháp ứng phó, đó là:
Đa dạng hóa thị trường và chủ động mở rộng thị trường xuất khẩu
Đa dạng hóa thị trường xuất khẩu ngay chính trong thị trường EU và mở rộng thị trường xuất khẩu, chuyển hướng xuất khẩu sang các thị trường phi truyền thống, các thị trường mới nổi lên là giải pháp cần thiết trong bối cảnh đồng euro đang giảm giá.
Những thị trường đáng chú ý có mức tăng trưởng tiêu dùng và có xu hướng ưa thích các sản phẩm cá tra của Việt Nam như các nước Đông Âu cũ, hoặc Bắc Âu như Thụy Điển, Bungaria, Romainia, Hungaria, Bỉ, Anh…Các thị trường mới nổi lên như Bắc Mỹ, Nam Mỹ...
Thị trường các nước Hồi giáo cũng đang được xem là một “kênh” tiêu thụ tốt, giúp các doanh nghiệp Việt Nam đa dạng hóa thị trường tiêu thụ. Dân số Hồi giáo chiếm gần 25% dân số toàn thế giới. Trung bình hàng năm thế giới chi khoảng 442 tỉ USD để mua thực phẩm, riêng các nước Hồi giáo chi 150 tỉ USD. Vì vậy, xuất khẩu thủy sản sang các thị trường Hồi giáo thông qua các nước có đông người Hồi giáo (Malaysia, Inđônêxia…) cũng đang được chú ý. Bên cạnh đó, Bắc Phi và Trung Đông cũng là những thị trường đầy tiềm năng.
Tăng cường hoạt động xúc tiến xuất khẩu vào thị trường EU
Xúc tiến thương mại là khâu then chốt trong việc phát triển mặt hàng, thị trường nhằm tăng trưởng xuất khẩu. Trong xu thế hội nhập, thị trường trở thành vấn đề sống còn đối với doanh nghiệp. Tăng cường xúc tiến thương mại phải được thực hiện cả ở tầm vĩ mô và vi mô.
Xúc tiến ở tầm vĩ mô nhằm làm cho phù hợp với đặc điểm, tính chất của thị trường xuất khẩu, thông qua việc giúp các doanh nghiệp tiếp cận với thị trường bằng các cuộc khảo sát thị trường, tham gia hội chợ hàng thuỷ sản, thông qua việc tiếp xúc với các doanh nghiệp. Tổ chức các hội thảo khoa học quốc tế về giống, nuôi trồng, chế biến thuỷ sản nhiệt đới, tìm kiếm các cơ hội để thu hút các doanh nghiệp đầu tư vào nuôi trồng, chế biến thuỷ sản.
Xúc tiến ở tầm vi mô nhằm đào tạo cán bộ có năng lực để làm công tác xúc tiến thương mại. Các hỗ trợ xúc tiến thương mại của nhà nước thay vì tập trung vào các thị trường lớn đã bão hòa hoặc có xu hướng suy giảm, nên chú trọng vào các thị trường mới, hỗ trợ doanh nghiệp về thông tin thị trường, thị hiếu tiêu dùng, thông tin doanh nghiệp nhập khẩu, kênh phân phối…
Nâng cao sức cạnh tranh về chất lượng của mặt hàng thuỷ sản
Sức cạnh tranh của hàng thuỷ sản Việt Nam hiện còn yếu: Xuất khẩu chủ yếu dưới dạng thô, giá thành sản phẩm cao, chất lượng thấp. Để nâng cao sức cạnh tranh chất lượng hàng thủy sản cần:
Thứ nhất, tăng cường công tác kiểm tra chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm đối với sản phẩm thuỷ sản bằng các biện pháp như: Xây dựng tiêu chuẩn vùng nuôi an toàn kết hợp tăng cường kiểm soát các cơ sở chế biến; triển khai đồng bộ các tiêu chuẩn quy định quy trình, quy phạm về quản lý chất lượng vệ sinh an toàn thực phẩm, quy định hoá chất và chế phẩm được phép sử dụng. Có chế tài xử phạt thích đáng đối với các trường hợp vi phạm; xây dựng các quy định về xuất xứ nguyên liệu gắn với vùng nuôi thuỷ sản.
Thứ hai, đảm bảo chất lượng nguyên liệu chế biến thủy sản. Các doanh nghiệp phải ký hợp đồng bao tiêu sản phẩm đối với người nuôi trồng, giúp đỡ ngư dân về kỹ thuật nuôi trồng, về giống, hướng dẫn ngư dân về kỹ thuật bảo quản nguyên liệu sau thu hoạch.
Thứ ba, tiếp tục đầu tư nâng cấp công nghệ chế biến hiện đại, tiên tiến, đồng bộ là rất cần thiết góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của chất lượng hàng thuỷ sản Việt Nam.
Tăng cường sự hợp tác, liên kết giữa các doanh nghiệp chế biến, xuất khẩu thuỷ sản trong nước với nhau và với các doanh nghiệp nước ngoài
Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung còn nhỏ bé về quy mô, vốn và kinh nghiệm kinh doanh còn thiếu trong khi lại phải cạnh tranh gay gắt với các đối thủ lớn có nhiều kinh nghiệm. Môi trường cạnh tranh khốc liệt, yêu cầu cao về chất lượng hàng hóa.....Tất cả những điều đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải tăng cường hợp tác với nhau tránh tình trạng mạnh ai nấy làm, tranh mua tranh bán. Liên kết là hướng để phát triển bền vững ngành thuỷ sản.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, nếu chưa liên kết được 4 nhà (nhà nông, nhà khoa học, nhà nước, nhà doanh nghiệp) thì tập trung cho mối liên kết “hai nhà” (nhà nông và nhà doanh nghiệp).
Thực tế, nhà nước và nhà khoa học luôn sẵn sàng hỗ trợ để ngành thủy sản phát triển nhưng vấn đề cốt yếu là “liên kết” nhà nông và nhà doanh nghiệp. Doanh nghiệp đóng vai trò nòng cốt, hỗ trợ kỹ thuật, vốn, giống, thức ăn, thu mua nguyên liệu… Liên kết nhằm giải quyết đầu vào-đầu ra về nguyên liệu, đáp ứng đòi hỏi quốc tế chính là vấn đề cấp bách hiện nay để ngành thủy sản tồn tại và phát triển bền vững.
Ngoài ra, các doanh nghiệp nên tiến hành liên doanh, liên kết với các đối tác nước ngoài từ đó hình thành nên các doanh nghiệp liên doanh có vốn đầu tư nước ngoài, tạo cho các doanh nghiệp này có thế mạnh về vốn đầu tư, công nghệ cho phép các doanh nghiệp có thể đa dạng hóa sản phẩm xuất khẩu có chất lượng cao, đáp ứng được những đòi hỏi của thị trường cũng như góp phần nâng cao khả năng cạnh tranh của hàng thuỷ sản.
Tăng cường sự hỗ trợ từ phía Nhà nước
Để ngành thuỷ sản hoạt động có hiệu quả thì Nhà nước đóng vai trò rất quan trọng. Nhà nước không chỉ điều tiết cho ngành thuỷ sản phát triển đúng hướng, mà còn tạo ra môi trường kinh doanh thuận lợi. Doanh nghiệp rất cần sự trợ giúp của Nhà nước trong việc tăng cường khả năng hiểu biết thị trường, khả năng tiếp thị, mở văn phòng đại diện…
Bên cạnh đó, Nhà nước cần có đủ các biện pháp hỗ trợ về tài chính tín dụng để thúc đẩy hoạt động xuất khẩu thuỷ sản như miễn giảm thuế xuất khẩu thuỷ sản và nguyên liệu, vật tư nhập khẩu để chế biến thuỷ sản xuất khẩu, tăng cường hoạt động tài trợ xuất khẩu và thành lập quỹ hỗ trợ sản xuất và xuất khẩu thuỷ sản. Do thuỷ sản thuộc nhóm hàng mà nguồn cung cấp phụ thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên, có tính thời vụ, rủi ro lớn và giá cả biến động thất thường.
Vì vậy, cần có sự tài trợ xuất khẩu của nhà nước, bao gồm tài trợ trước khi giao hàng, tài trợ trong khi giao hàng và tín dụng sau giao hàng. Tài trợ xuất khẩu ngoài việc cung cấp vốn cho giao dịch xuất khẩu như trên còn có tác dụng hạn chế những rủi ro phát sinh trong giao dịch xuất khẩu do đó khuyến khích được các ngân hàng cung cấp các khoản tín dụng xuất khẩu ở mức lãi suất hợp lý. Nhà nước cần đưa ra và thực thi các chính sách quản lý, đầu tư thoả đáng để đảm bảo khai thác tốt nguồn lợi xa bờ cũng như cải tiến kỹ thuật nuôi trồng thuỷ sản để đảm bảo nguồn nguyên liệu chất lượng cao cung cấp cho hoạt động chế biến thuỷ sản xuất khẩu.
Tóm lại, để đẩy mạnh xuất khẩu thủy sản, nâng cao hơn nữa khả năng cạnh tranh của Việt Nam, tạo vị thế ngày càng vững chắc của hàng thuỷ sản trên thị trường thế giới, Việt Nam cần chủ động mở rộng và đa dạng hóa thị trường xuất khẩu, tiếp cận, cập nhật thông tin một cách đầy đủ và chính xác, đánh giá đúng khả năng sản xuất và mạnh dạn đầu tư đổi mới trang thiết bị, nâng cao chất lượng hàng thuỷ sản xuất khẩu, đẩy mạnh xúc tiến thương mại, tận dụng tối đa các lợi thế vẫn được coi là thế mạnh của Việt Nam như: điều kiện tự nhiên, chi phí lao động rẻ…., hạn chế thấp nhất các rủi ro có thể xẩy ra thì chắc chắn Việt Nam sẽ hòan thành chỉ tiêu xuất khẩu thủy sản năm 2010.